Bệnh đậu mùa khỉ do virus đậu mùa khỉ gây ra, một mầm bệnh có liên quan chặt chẽ với virus variola gây ra bệnh đậu mùa. Hiện không có phương pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh đậu mùa khỉ, nhưng một số loại thuốc kháng virus có thể có hiệu quả trong việc điều trị bệnh.

1. Những điều cần biết về bệnh đậu mùa khỉ

Bệnh đậu mùa, một căn bệnh do virus variola gây ra. Việc phát hiện ra vaccine đậu mùa đã xóa sổ căn bệnh này và Tổ chức Y tế Thế giới chính thức tuyên bố rằng bệnh đậu mùa đã được loại trừ trên toàn thế giới vào tháng 5 năm 1980.

Bệnh đậu mùa khỉ có các biểu hiện tương tự như ở bệnh đậu mùa. Hiện chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu dành riêng cho bệnh nhiễm trùng đậu mùa khỉ.

Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh đậu mùa khỉ tương tự như bệnh đậu mùa. Sau thời gian ủ bệnh không triệu chứng lên đến 3 tuần, bệnh nhân bị nhiễm bệnh phát sốt, nhức đầu, sưng hạch bạch huyết và mệt mỏi. Những triệu chứng này thường kéo dài từ 1-4 ngày và sau đó là sự phát triển của phát ban và các tổn thương trên da. Phát ban thường ảnh hưởng đến mặt và sau đó lan đến các chi, bao gồm cả lòng bàn tay và lòng bàn chân.

Các biến chứng của nhiễm trùng đậu mùa khỉ bao gồm viêm phổi, mất nước và nhiễm trùng huyết (nhiễm độc máu). Sẹo của các tổn thương da đóng vảy là biến chứng lâu dài thường gặp nhất sau khi nhiễm bệnh đậu mùa khỉ.

Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh đậu mùa khỉ tương tự như bệnh đậu mùa.

2. Các thuốc điều trị tiềm năng

Hiện không có loại thuốc nào được phê duyệt để điều trị bệnh đậu mùa khỉ. Nhiều người khỏi bệnh mà không cần điều trị đặc hiệu.

Mặc dù không có cách chữa khỏi bệnh đậu mùa ở khỉ, nhưng việc tiêm phòng bệnh đậu mùa trước đó có thể bảo vệ chống lại bệnh đậu mùa khỉ.

Tuy nhiên, hiệu quả của việc tiêm phòng đậu mùa giảm dần theo thời gian, và không rõ liệu những người đã được tiêm phòng trước đó có còn khả năng miễn dịch chống lại bệnh đậu mùa khỉ hay không.

Thuốc kháng virus cũng đã được nghiên cứu là phương pháp điều trị tiềm năng đối với bệnh đậu mùa khỉ. Trong trường hợp nghiêm trọng, bệnh nhân có thể được chỉ định thuốc kháng virus như tecovirimat, được thiết kế để điều trị bệnh đậu mùa và cũng có tác dụng chống lại các loại virus orthopoxvirus khác.

Điều trị bằng tiêm tĩnh mạch globulin miễn dịch vaccinia (VIG), có chứa các kháng thể lấy từ máu của những người đã được chủng ngừa bệnh đậu mùa, cũng có thể được lựa chọn.

2.1 Tecovirimat

Tecovirimat là thuốc kháng virus đầu tiên được phê duyệt sử dụng để điều trị bệnh đậu mùa ở người lớn cũng như bệnh nhân trẻ em và được coi là phương pháp điều trị được lựa chọn. Bệnh nhân biểu hiện bệnh nặng được điều trị bằng liệu pháp kép bao gồm tecovirimat và brincidofovir.

Tecovirimat hoạt động bằng cách ức chế protein vỏ virus. Protein này chịu trách nhiệm ngăn chặn các bước cuối cùng liên quan đến sự phát triển của virus và sự giải phóng tiếp theo từ tế bào bị nhiễm, dẫn đến ức chế sự lây lan của virus trong vật chủ bị nhiễm.

Trong các nghiên cứu trên động vật, tecovirimat đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ tử vong do nhiễm các loại virus orthopoxvirus khi được sử dụng sớm khi mắc bệnh. Ở người, hiệu quả bị giới hạn ở nồng độ thuốc trong máu và một số nghiên cứu điển hình cho thấy, bệnh nhân được điều trị bằng tecovirimat có thể rút ngắn thời gian bị bệnh và sự phát tán của virus.

Tecovirimat là thuốc kháng virus đầu tiên được phê duyệt sử dụng để điều trị bệnh đậu mùa.

2.2 Brincidofovir và cidofovir

Brincidofovir là thuốc kháng virus được sử dụng để điều trị bệnh đậu mùa từ tháng 6 năm 2021 tại Mỹ. Brincidofovir dùng đường uống là một chất tương tự của cidofovir kháng virus được dùng qua đường tĩnh mạch.

Brincidofovir được phát hiện có tính an toàn tốt hơn với độc tính trên thận ít hơn so với được quan sát thấy trong cidofovir. Cả hai loại thuốc kháng virus này đều hoạt động bằng cách ức chế DNA polymerase của virus.

Hơn nữa, các nghiên cứu khác nhau đã cho thấy hiệu quả của brincidofovir chống lại nhiễm trùng orthopoxvirus.

2.3 Globulin miễn dịch vaccinia (VIG)

VIG, một globulin hyperimmune, được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) cho phép sử dụng như một phương pháp điều trị chống lại một số biến chứng liên quan đến tiêm chủng vaccine. Những biến chứng này bao gồm tiêm chủng tiến triển, bệnh chàm do tiêm chủng, nhiễm trùng do tiêm chủng ở những người bị các bệnh liên quan đến da, và khó chịu do tiêm chủng gây ra. Mặc dù VIG có thể là một phương pháp điều trị tiềm năng, nhưng có một số dữ liệu hạn chế về hiệu quả của VIG đối với bệnh đậu mùa cũng như bệnh đậu mùa khỉ.

Để ngăn ngừa lây truyền nhiễm đậu mùa khỉ, Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị:

– Nên cách ly (tại nhà hoặc tại bệnh viện) đối với những người bị nhiễm bệnh.

– Sử dụng phòng tắm riêng hoặc vệ sinh sau mỗi lần sử dụng.

– Làm sạch các bề mặt thường xuyên chạm vào bằng xà phòng và chất khử trùng gia dụng và tránh quét / hút bụi (điều này có thể làm xáo trộn các phần tử virus và khiến những người khác bị nhiễm bệnh).

– Sử dụng đồ dùng riêng, khăn tắm, ga giường và đồ điện tử.

– Tự giặt giũ (nhấc khăn trải giường, quần áo và khăn tắm cẩn thận mà không giũ mạnh, cho vào túi nhựa kín trước khi mang vào máy giặt và giặt bằng nước nóng).

– Mở cửa sổ để thông gió tốt.

– Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước hoặc chất khử trùng tay có cồn.

(Theo suckhoedoisong.vn)

Tin cùng chuyên mục

VIÊM NHA CHU MÃN TÍNH (CHRONIC PERIODONTITIS)

VIÊM NHA CHU MÃN TÍNH (CHRONIC PERIODONTITIS)

VIÊM DA TIẾP XÚC DO CÔN TRÙNG (Kiến khoang) – Nguyên nhân, biểu hiện và điều trị.

VIÊM DA TIẾP XÚC DO CÔN TRÙNG (Kiến khoang) – Nguyên nhân, biểu hiện và điều trị.

BẠCH QUẢ (GINKGO BILOBA) VÀ LỢI ÍCH SỨC KHỎE

BẠCH QUẢ (GINKGO BILOBA) VÀ LỢI ÍCH SỨC KHỎE